Trong doanh nghiệp có thể gặp thuật ngữ Lao động trực tiếp mà nhiều người không biết là gì. Lao động trực tiếp không chỉ đơn thuần là những người tham gia vào quá trình sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ, mà còn là những cột mốc quan trọng trong nền kinh tế mỗi quốc gia. Cùng tìm hiểu về Lao động trực tiếp là gì? Phân loại lao động trực tiếp qua bài viết sau

Đối tượng lao động là gì? Phân thành mấy loại?

Đối tượng lao động là khái niệm thuộc lĩnh vực kinh tế chính trị Mác - Lênin, là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người tác động vào để biến đổi nó theo mục đích của con người. Hay có thể hiểu đối tượng lao động là yếu tố vật chất của sản phẩm trong tương lai.

Lao động là hoạt động có mục đích và ý thức của con người, nhằm tạo ra các sản phẩm để phục vụ nhu cầu của đời sống con người. Quá trình lao động cũng là quá trình phát triển và hoàn thiện con người cũng như xã hội loài người.

Từ đó, con người ngày càng hiểu biết về tự nhiên hơn, có thể phát hiện ra các quy luật tự nhiên, xã hội, đồng thời có thể cải tiến, hoàn thiện công cụ sản xuất, giúp cho sản xuất ngày càng hiệu quả hơn.

Đối tượng lao động được phân thành các loại dưới đây:

- Loại có sẵn trong tự nhiên, như: đá ở núi, tôm, cá ở biển, các loại khoáng sản có trong lòng đất, gỗ trong rừng nguyên thuỷ,...

Loại đối tượng lao động có sẵn trong tự nhiên thì con người chỉ cần làm cho chúng tách khỏi mối liên hệ trực tiếp với tự nhiên là đã có thể sử dụng được. Chúng được xem là đối tượng lao động của các ngành công nghiệp về khai thác.

- Loại đã qua chế biến, tức là đã có sự tác động của con người, trước đó được gọi là nguyên liệu. Loại đối tượng lao động này thường là đối tượng của ngành công nghiệp chế biến, như: sắt thép chế tạo máy, sợi để dệt vải,...

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng mọi nguyên liệu đều là đối tượng lao động nhưng không phải mọi đối tượng lao động đều được xem là nguyên liệu.

Cùng với sự phát triển của nền sản xuất, vai trò của các loại đối tượng cũng có sự thay đổi. Đối tượng lao động có sẵn thì dần dần có xu hướng cạn kiệt, còn đối tượng lao động đã qua chế biến thì ngày càng tăng lên.

Quy định về quyền của người lao động

Quy định về quyền của người lao động là một phần quan trọng của hệ thống pháp luật lao động, nhằm bảo vệ và đảm bảo các quyền lợi cơ bản của người lao động trong quá trình làm việc. Theo Bộ luật Lao động 2019, người lao động có một loạt các quyền được đảm bảo và bảo vệ, bao gồm quyền tự do tìm việc, quyền được đối xử bình đẳng và không bị cưỡng bức lao động.

Một trong những quyền cơ bản nhất là quyền được hưởng mức lương phù hợp với trình độ và không bị phân biệt giới tính. Điều này nhấn mạnh tính công bằng và sự tôn trọng đối với người lao động bất kể giới tính của họ.

Ngoài ra, người lao động còn được bảo vệ trong môi trường làm việc, không chỉ về mặt an toàn mà còn về mặt sức khỏe. Họ có quyền được nghỉ phép hàng năm có lương và được hưởng các phúc lợi tập thể khác như quyền thành lập, tham gia công đoàn.

Một điểm đáng chú ý khác là quyền đình công của người lao động, được coi là một trong những quyền quan trọng nhất. Đình công là biện pháp cuối cùng mà người lao động có thể sử dụng để bảo vệ quyền lợi và yêu cầu công bằng từ phía người sử dụng lao động.

Tuy nhiên, quyền của người lao động không chỉ dừng lại ở các quy định cơ bản mà còn có thể được mở rộng và bổ sung theo quy định của pháp luật. Điều này nhằm đảm bảo rằng người lao động được bảo vệ đầy đủ và công bằng trong mọi tình huống làm việc.

Đối tượng lao động có gì khác tư liệu lao động?

Về đối tượng lao động: Được điều chỉnh theo pháp luật lao động, bào gồm quan hệ lao động theo hợp đồng giữa người lao động với các chủ thể sau:

- Các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài.

- Các cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế/tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam.

- Các cá nhân, gia đình sử dụng lao động tại Việt Nam.

- Trong đó, các quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài còn có thể là đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Nếu các điều ước quốc tế có Việt Nam là một bên ký kết/tham gia quy định khác thì quan hệ lao động sẽ được điều chỉnh theo các điều ước quốc tế đó.

- Trong các quan hệ lao động nêu trên, các chủ thể phải tuân theo các quy định của luật lao động trong các khâu và các giai đoạn, từ thiết lập quan hệ lao động, thực hiện quan hệ, tạm hoãn hợp đồng lao động,... cho đến chấm dứt quan hệ lao động.

Như vậy, luật lao động không điều chỉnh các quan hệ khác, dù có yếu tố lao động như quan hệ giữa xã viên với hợp tác xã, dịch vụ, gia công,... Những quan hệ này không phải là quan hệ lao động và không có yếu tố sử dụng lao động.

Trên thực tế, có các quan hệ thuê mướn thực hiện công việc nhưng chưa thể xác định ngay là có sự sử dụng lao động như quan hệ lao động mà chỉ xác định là quan hệ dịch vụ theo hình thức thuê khoán. Những quan hệ nêu trên rất khó để phân biệt khi xảy ra tranh chấp, các bên phải tự chứng minh về mối quan hệ của họ có phải là quan hệ lao động hay không. Nếu không chứng minh được thì quyền và nghĩa vụ của các bên được xác định theo pháp luật dân sự.

Có thể khẳng định đối tượng điều chỉnh chủ yếu của pháp luật lao động là quan hệ lao động làm công ăn lương, phát sinh dựa trên cơ sở hợp đồng. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng chung trên quốc tế và đảm bảo hài hoà trong hệ thống pháp luật hiện hành.

Về tư liệu lao động: Là một trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, dùng với sức lao động và đối tượng lao động.

- Tư liệu lao động và chủ thể lao động làm tổn hại tư liệu sản xuất.

- Trong một số công thức thì phương tiện lao động và sức lao động (bao gồm cả bản thân hoạt động và các kỹ năng, kiến thức mang lại trong quá trình sản xuất) bao gồm các lực lượng sản xuất của xã hội và các công thức khác xác định lực lượng sản xuất nhiều hơn trong phạm vi bó hẹp là sự kết hợp giữa công vụ sản xuất và người lao động sử dụng chúng.

- Các tiến bộ trong công nghệ và năng suất lao động đã giúp một số ngành thoát khỏi tình trạng thâm hụt lao động. Các ngành sử dụng nhiều lao động như: nhà hàng, khai thác mỏ, nông nghiệp, khách sạn, chăm sóc sức khoẻ,...

Nhìn chung, đối với các nền kinh tế kém phát triển thì có xu hướng sử dụng nhiều lao động hơn. Tình trạng này phổ biến vì thu nhập thấp dẫn đến nền kinh tế không có khả năng để đầu tư vào vốn đắt đỏ.

Tuy nhiên, với nguồn thu nhập thấp thì doanh nghiệp cũng có thể duy trì khả năng cạnh tranh bằng cách sử dụng nhiều lao động, từ đó, các doanh nghiệp trở nên tí thâm hụt lao động hơn và có thể thâm dụng nguồn vốn nhiều hơn.

Nếu còn vấn đề vướng mắc, bạn đọc vui lòng liên hệ tổng đài

Phân loại lao động trực tiếp

Phân loại lao động trực tiếp dựa vào năng lực và trình độ chuyên môn của họ. Lao động tay nghề cao bao gồm những cá nhân đã được đào tạo chuyên môn và tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực công việc của mình. Đây là những người có khả năng đảm nhận các nhiệm vụ phức tạp và đòi hỏi trình độ cao.

Trong khi đó, lao động có tay nghề trung bình là những người đã được đào tạo chuyên môn nhưng có thể chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế, hoặc là những người không có bằng cấp chuyên môn nhưng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm qua thời gian làm việc. Họ đã trưởng thành và phát triển kỹ năng thông qua việc học hỏi từ thực tế làm việc.