Tàu điện có một dây trượt duy nhất thu năng lượng từ đường điện trên không để cấp cho động cơ cảm ứng. Robot của động cơ cảm ứng được nối với các bánh xe, còn đầu khác của động cơ được nối đất nhờ một dây được kết nối với các bánh xe thông qua một chổi than để tạo thành mạch kín. Bánh xe luôn tiếp xúc với đường ray, còn đường ray được nối đất.

Hệ thống tàu điện ngầm hoạt động thế nào

Hệ thống tàu điện ngầm đơn giản chỉ là nhiều tàu điện chạy trong một đường ngầm. Tổng quan tàu do nhiều toa tàu ghép lại và bên trong có các hàng ghế cũng như các thanh trụ và dây đai giúp hành khách đứng vững khi đông người.

Tàu chạy trên đường ray thường có cùng kích thước nhất định. Ở thành phố New York, đường ray rộng 1,4 mét là đường ray tiêu chuẩn, cho phép tàu điện có thể kết nối với các hệ thống đường sắt khác.

Tàu điện ngầm cũng có những hệ thống đặc trưng ít được biết đến đó đầu tàu cực kỳ phức tạp. Tàu điện ngầm ở Copenhagen, Đan Mạch hiện đang được xây dựng trên cơ sở không người lái. Giai đoạn tiếp theo thì tàu điện ngầm của New York cũng sẽ được nâng cấp giống như vậy, bao gồm cả hệ thống máy tính điều khiển tự động mọi thứ, từ hệ thống đèn tín hiệu đến lập trình hướng đi. Tàu còn sử dụng phanh nhiệt, có khả năng tái tạo lại một phần năng lượng đã mất. Ngoài ra hệ thống máy tính còn giúp giảm thiểu những sai lầm mà người điều khiển hay mắc phải cũng như giúp làm tăng hiệu quả hoạt động của hệ thống.

Thông thường, tàu điện tự vận hành còn tích hợp một bộ giám sát giống như một chiếc ti-vi cho phép hành khách biết được vị trí hiện tại và giúp khiểm soát tàu dễ dàng hơn.

Hệ thống radio hai chiều cho phép hành khách có thể nói chuyện với nhân viên điều khiển hoặc yêu cầu giúp đỡ khi gặp tình huống khẩn cấp. Bên cạnh đó, cảm biến điều khiển cửa tự động có thể phát hiện hành khách gần cửa tàu, giúp hạn chế tình trạng họ tự làm tổn thương khi cố gắng lên tàu lúc cửa đang đóng.

Hệ thống tàu điện ngầm dùng tín hiệu đèn giao thông tự động nhằm tăng tính an toàn. Tín hiệu thông minh hướng dẫn các tàu trong khu vực gần đó lúc nào nên dừng, khi nào nên tiếp tục và có thể cảnh báo nguy hiểm phía trước. Cảm biến hồng ngoại được gắn trên tàu giúp phát hiện các tàu có thể va chạm và chắn chắn điều đó không xảy ra.

Một số tín hiệu được dùng theo phương pháp vật lý để người lái tàu có thể nắm quyền điểu khiển. Một vài trường hợp hệ thống cũng tự động kích hoạt phanh khẩn cấp khi tàu mất kiểm soát hay đang nguy hiểm. Hệ thống tàu điện ngầm cũ của New York cho phép người lái tàu có thể khởi động lại đèn xanh khi đang đỏ mà không vi phạm luật giao thông.

Năng lượng điện thường được dùng để kiểm soát hệ thống thông gió cho tàu điện ngầm, nhưng không khí tự nhiên có thể vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu của hành khách. Đường ngầm ở thành phố New York đã được lắp đặt cả một chuỗi máy lọc khí hiện đại, cho phép lọc 600,000 mét khối khí mỗi phút.

Nếu bạn đang tự hỏi làm thế nào Các lớp ESL hãy làm việc, hãy đọc tiếp, vì chúng tôi sắp đi vào chi tiết về những gì bạn có thể mong đợi lớp học trông như thế nào nếu bạn quan tâm đến việc học tiếng Anh như Ngôn ngữ thứ hai ..

Học sinh Anh ngữ như một ngôn ngữ thứ hai (ESL) nói chung không thể được học chính khóa trong các trường trung học của Mỹ và Canada vì tiếng Anh của họ rời rạc và thông tục. Họ không thể theo dõi các bài thuyết trình và thảo luận học thuật cấp cao hơn bằng tiếng Anh.

Theo đó, hầu hết các khu học chánh (“nơi có số lượng đảm bảo”) tạo ra một lớp học Anh ngữ riêng biệt cho học sinh ESL. Lớp học có thể có ngôn ngữ thứ hai mạch lạc (thực tế là L1, ngôn ngữ mẹ đẻ của học sinh) hoặc có thể có một số ngôn ngữ. Chúng tôi có thể mô tả lớp học cấp lớp Mười này là một trải nghiệm “đắm chìm” bởi vì tiếng Anh thay vì L1 sẽ là ngôn ngữ giảng dạy trong toàn bộ chương trình học.

Chỉ khi học sinh có trình độ tiếng Anh phù hợp với chương trình dự bị đại học chính quy thì mới được chuyển sang học chính quy; quá trình ngâm có thể kéo dài đến hai năm. Phụ huynh của những học sinh như vậy nên lưu ý thực tế rằng, một khi học sinh bước sang tuổi 19, học sinh đó không thể tiếp tục theo học tại một trường trung học của Canada, và phải đi học hòa nhập với người lớn, thường là trong một trường cao đẳng cộng đồng.

Đối với việc giảng dạy trên lớp, nếu chúng ta kết hợp hai nhóm (người bản ngữ và người học tiếng Anh), người bản ngữ có lẽ sẽ luôn có lợi thế vốn có. Hai nhóm sẽ có xu hướng trải nghiệm Quy trình Viết và Các lĩnh vực Nghệ thuật Ngôn ngữ khác nhau.

Cuối cùng, có thể “các phương pháp tốt nhất trong lớp học” có nghĩa giống nhau đối với cả hai nhóm người học không? Đối với tôi, có một sự khác biệt lớn nằm ở việc dạy trước những từ vựng cần thiết. Học sinh ESL có vốn từ vựng học thuật rất hạn chế, trong khi các đồng nghiệp của họ là người bản ngữ có thể có vốn từ vựng nhận dạng lớn hơn đáng kể.

Cho dù một người đang dạy học sinh ESL hay người bản ngữ, sẽ có những hằng số trong lớp học: các vấn đề theo ngữ cảnh như quản lý lớp học, kỳ vọng của học sinh và các yêu cầu về chương trình giảng dạy, được xác định bởi trường học, học khu và tỉnh.

Một hằng số khác mà nhiều người trong chúng ta không biết là kỳ vọng và thái độ của chúng ta đối với học sinh, khả năng và hạn chế của chúng. Những thái độ này cũng như chương trình giảng dạy được ủy thác ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng và loại bài tập mà giáo viên giao cho học sinh.

Trong số các hoạt động và bài tập trên lớp sau đây thường được coi là “phương pháp hay nhất” trong lớp học Ngữ Văn Anh, có một điểm nổi bật: việc giảng dạy chính thức về ngữ pháp. Mặc dù nhiều giáo viên tiếng Anh trẻ tuổi tin rằng người bản ngữ không yêu cầu các bài học ngữ pháp chính thức, nhưng một số hình thức hướng dẫn trực tiếp về diễn đạt, cú pháp, từ nguyên và ngữ pháp có lợi cho TẤT CẢ Người học tiếng Anh, không chỉ học sinh ESL: